Năm 1979, tôi đến Mátxcơva, thủ đô của Liên Xô. Ngoài ấn tượng mạnh về hệ thống tàu điện ngầm tại Matxcơva, một ấn tượng sâu đậm khác đi theo chúng tôi tới tận bây giờ: nạn nghiện ngập.
Nhiều lần chúng tôi dừng lại trước một ô cửa tò vò trên một con phố, đứng quan sát cả vài giờ. Đó là một nơi bán rượu vodka. Một hàng dài cỡ bốn, năm chục người đứng xếp hàng, vòng vèo trên vỉa hè. Có cả đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ.
Chỉ có một số ít là xếp hàng mua xong rồi đi, đa số mua xong bước ra xếp hàng tiếp (vì mỗi lần chỉ bán cho một người 1 chai thôi), trong khi chờ đến lượt mua chai mới, khui chai rượu đã mua ra và uống luôn. Thậm chí có ông không kịp rời khỏi cái lỗ tò vò, đứng đó khui rượu và tu, người mua sau phải dùng vai hích hoặc lấy tay đẩy. Có người tu một hơi hết sạch chai vodka 750 ml…
Có lẽ hầu hết người Việt nam đến Matxcơva thời đó đều biết khách sạn Bông lúa vàng. Cạnh khách sạn có một công viên. Cứ khoảng 8, 9 giờ tối, trong công viên người say rượu nằm la liệt. Cảnh sát đến “thu dọn” hiện trường, người nắm hai chân, người nắm hai tay, quẳng lên xe như những bao gạo rồi chở đi.
Ở nước ta, bia rượu đã phá hoại hạnh phúc của không biết bao nhiêu gia đình, biến những người cha, người chồng thành những kẻ bạo hành, thậm chí cưỡng hiếp ngay cả con ruột của mình, biến những bác sĩ uy nghi đạo mạo thành kẻ bê tha, chuyên đi “gài độ” nhậu, biến những cảnh sát thành kẻ giết người…
Những ai đã từng ở phòng cấp cứu bệnh viện Chợ rẫy một đêm, nhất là vào những dịp lễ tết, sẽ phải rùng mình khi thấy bia rượu tác động như thế nào vào xã hội ta. Vài trăm ca tai nạn giao thông, tại nạn sinh hoạt, đâm chém nhau nhập viện trong một đêm, mà đại đa số có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến tệ nạn nhậu nhẹt, đến bia rượu.
Những vụ tai nạn hay đâm chém nhau giết chết những con người đang là trụ cột chính trong gia đình, làm cho không biết bao nhiêu đứa trẻ bỗng nhiên bơ vơ, không được nuôi nấng, không được học hành đàng hoàng, hoặc biến những trụ cột chính của gia đình thành gánh nặng cho những người còn lại…
Chủ trương hạn chế bia rượu của Nhà nước ta vào thời điểm này là một chủ trương vô cùng đúng đắn, nhận được sự tán thưởng của nhiều tầng lớp nhân dân, Tuy nhiên, về cách thực hiện còn có nhiều điều gây tranh cãi.
Với một lượng lớn bia rượu được sản xuất và tiêu thụ trong nước ta, mang lại một nguồn tiền không nhỏ cho ngân khố quốc gia. Việc hạn chế bia rượu sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến nguồn thu ngân sách. Nhà nước đã tính đến chuyện này chưa, đã sẵn sàng cho tình huống này chưa?
Và khi nguồn thu bị giảm, Nhà nước đã có phương án nào bù đắp nguồn thu hay chưa? Và khi đó thì Nhà nước có còn kiên quyết làm nữa hay không? Nếu Nhà nước vẫn kiên quyết làm thì có thêm thuế phí gì đè lên lưng người dân nữa hay không?
Rồi đầu ra cho những sản phẩm mà các nhà máy, các cơ sở sản xuất bia rượu đang mọc lên như nấm ở trong nước ta? Bài toán công ăn việc làm cho những người công nhân, cho lực lượng sản xuất đáng sống nhờ bia rượu… Tất cả những điều đó đã được tính toán đến chưa? Hay lại như một phong trào và cuối cùng trở thành chuyện cười như những câu chuyện và hạn chế xe gắn máy, mũ bảo hiểm “dỏm”?
Ngoài việc xác định rõ được mất và phương án xử lí các hậu quả mang lại từ việc hạn chế bia rượu, việc tổ chức thực hiện cũng có vai trò quyết định sự thành bại. Việc giao cho Bộ Y tế đóng vai trò chủ chốt trong việc hạn chế bia rượu tiềm ẩn một nguy cơ to như quả núi, rằng chương trình sẽ thất bại.
Ngành y tế chỉ có thể khuyến cáo, phân tích cho người dân thấy tác hại của bia rượu. Ngay cả trong việc này, ngành y tế còn phải “nhờ vả” và phụ thuộc vào truyền thông. Ngành y tế không thể cấm mua, cấm bán, cấm uống, cấm sản xuất, ngành y tế cũng không định giá, không kiểm soát được việc quảng bá sản phẩm bia rượu. Đấy là chưa kể ngành y tế là ngành không có quyền với ai cả, nhân viên y tế còn phải trân mình ra cho những kẻ say rượu luôn miệng chửi rủa, đe dọa, thậm chí hành hung, đâm chém, sát hại.
Trong khi những đồng tiền thuế thu từ bia rượu và những nguồn khác cứ đổ vào những con tàu ma, những ụ nổi chìm, những đường ống vừa xây xong đã vỡ, những con đường lún theo kiểu bậc thang “tuyệt đẹp”… chẳng có mấy đồng chi cho y tế để giải quyết hậu quả cho các ngành. Mới chỉ chi ra vài tỉ để mua vắc xin phòng bệnh mà dư luận đã rùm beng lên là nhiều tiền quá, tốn kém quá.
Theo tôi, ngành y tế hiện nay đang là nạn nhân lớn nhất của bia rượu, đang phải gồng mình lên với nạn quá tải, một vấn nạn mà bia rượu dự phần không nhỏ. Ngành y tế đang phải giải quyết tất cả các hậu quả tệ hại nhất do bia rượu mang lại, bệnh tật, chấn thương, sang chấn tâm lí… Bây giờ đổ thêm công việc này lên đầu y tế, không biết ngành y tế còn có thể đứng vững được nữa hay không?
Giống như tất cả những lần “ra quân” trước đây, chúng ta nặng về các biện pháp hành chính. Có lẽ đó là cái dễ nhất mà chúng ta có thể nghĩ ra. Trên thực tế, các biện pháp hành chính đang ngày càng mất đi tác dụng, vừa do sự yếu kém của bộ máy công quyền, vừa là hậu quả của sự lạm dụng nó một cách thái quá trong một thời gian dài.
Một biện pháp đơn giản hơn, dễ áp dụng hơn, và khả thi hơn rất nhiều, đó là tăng thuế tiêu thụ đặc biệt lên mặt hàng bia rượu. Nếu thực lòng chúng ta muốn chống lại tệ nạn nhậu nhẹt, nếu thật lòng chúng ta muốn hạn chế bia rượu, hãy đừng sợ những nhà máy bia rượu phải hạn chế sản xuất, hãy đừng sợ người dân không có khả năng mua bia rượu.
Trước đây, để triệt tiêu ý chí đấu tranh của nhân dân Việt nam, thực dân Pháp đã bắt dân ta phải uống rượu. Ngày nay, chỉ có ta với ta, nếu thực lòng muốn cho dân giàu nước mạnh, hãy hạn chế sản xuất bia rượu, hãy hạn chế khả năng tiếp cận với bia rượu của người dân bằng biện pháp kinh tế.
Mọi biện pháp hành chánh, kể cả việc cấm bán bia rượu sau 22 giờ sẽ chẳng bao giờ khả thi, sẽ chỉ giúp tăng thêm thu nhập cho những nhóm lợi ích trong các lực lượng kiểm tra, kiểm soát, tạo thêm nguồn sống cho nạn tham nhũng vặt và tham nhũng không vặt mà thôi.
Người viết : TS. BS Võ Xuân Sơn